Điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, đối tượng, góp phần ổn định quy mô dân số
Cùng với cả nước, sau nhiều năm thực hiện với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, công tác Dân số - KHHGĐ tỉnh Cao Bằng đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và góp phần xóa đói giảm nghèo nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế, quy mô dân số tỉnh phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, mô hình gia đình 2 con đang trở nên phổ biến, chất lượng dân số từng bước được cải thiện.
Thực hiện điều chỉnh mức sinh hợp lý, phấn đấu đạt mức sinh thay thế; hạn chế tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh
Tuy nhiên
trong thời gian gần đây, mức sinh đã tăng nhanh trở lại, theo công bố của Tổng
cục Thống kê, giai đoạn 2015 - 2019, Cao Bằng là 1 trong 33 tỉnh, thành phố có
mức sinh cao, số con trung bình mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (tổng tỷ suất
sinh) trung bình là 2,45 con/phụ nữ (cao hơn mức sinh thay thế là 2,1 con); tỷ
lệ tăng dân số giai đoạn 2009 - 2019 là 0,45%/năm; tỷ suất sinh thô năm 2009 là
18,1%, giảm xuống còn 16,6% năm 2019; tổng tỷ suất sinh của tỉnh Cao Bằng
giai đoạn 2009 - 2019: năm 2009 là 2,18 con, năm 2019 là 2,43 con, trung bình
10 năm là 2,52 con.
Theo số liệu năm 2019 của Tổng
cục Dân số, phụ nữ sinh con trong nhóm tuổi 15 - 19 và 20 - 24 tuổi của Cao
Bằng cao hơn so với toàn quốc (sinh sớm). Tổng tỷ suất sinh của phụ nữ nông thôn của tỉnh là
2,45 con/phụ nữ, cao hơn so với phụ nữ nông thôn toàn quốc (2,26 con/phụ nữ). Tổng tỷ suất sinh của phụ nữ thành thị của tỉnh 2,15 con/phụ nữ (đạt mức sinh thay thế), tỷ
suất sinh của phụ nữ thành thị toàn quốc là 1,83 con/phụ nữ.
Kết quả giảm sinh chưa bền vững,
không đồng đều giữa các vùng, có sự chênh lệch mức sinh giữa các địa phương
trong tỉnh, điều này ảnh
hưởng đến chất lượng dân số, tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã
hội và an sinh xã hội của địa phương, vì vậy rất cần có những giải pháp đồng
bộ, hiệu quả để điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, đối tượng.
Đặc biệt, theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, Việt Nam hiện có 16 dân tộc có
số dân dưới 10.000 người. Trong đó, dân tộc Lô Lô 5.000 người. Kết quả Tổng
điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, dân số dân tộc Lô Lô của cả nước tăng lên là
4.827 người, trong đó 59% người Lô Lô sống tại Cao Bằng, với số dân là 2.861
người. Dân số dân tộc Lô Lô có tăng lên nhưng vẫn là nhóm dân tộc dưới 5.000
người. Do vậy việc tăng cường triển khai các hoạt động điều chỉnh mức sinh nhằm
bảo vệ, phát triển và nâng cao chất lượng dân số dân tộc Lô Lô thực sự rất cần
thiết.
Nguyên nhân mức sinh có chiều
hướng tăng trở lại đây một phần do nhận thức của người dân về sinh đủ 2 con
chưa đầy đủ, hiểu chưa đúng một số nội dung về Pháp lệnh Dân số và chính sách
hỗ trợ an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước liên quan đến công tác dân số. Công
tác tuyên truyền, giáo dục về sinh đủ 2 con, gia đình hạnh phúc chậm đổi mới,
hiệu quả chưa cao ở một số nhóm đối tượng; chưa khai thác, phát huy được lợi
thế của các loại hình truyền thông hiện đại. Đặc biệt là việc sáp nhập các đơn
vị hành chính cấp huyện, xã, xóm đã tác động không nhỏ đến việc triển khai công
tác chuyên môn về y tế, dân số, giáo dục, truyền thông… Nguồn lực đầu tư hạn
chế, chủ yếu là từ ngân sách Trung ương nhưng ngày càng giảm và không có nguồn
vốn tài trợ của nước ngoài; nguồn lực địa phương cho công tác dân số chưa đáp
ứng yêu cầu.
Tác động của các chính sách an
sinh xã hội cũng là khó khăn, thách thức lớn trong công tác truyền thông về dân
số - kế hoạch hóa gia đình, về giảm sinh: Tại Khoản 7, Điều 5 Nghị định số
20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội
đối với đối tượng bảo trợ xã hội quy định: “Trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ
nghèo, hộ cận nghèo không thuộc đối tượng quy định tại các khoản 1, 3 và 6 điều
này, đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi đặc biệt khó khăn” thuộc đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp xã hội hằng
tháng. Đây là chính sách rất nhân văn nhưng với những trường hợp sinh con thứ 3
trở lên lại vi phạm quy định tại Nghị định số 39/2015/NĐ-CP ngày 27/4/2015 của
Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ nghèo là người dân tộc
thiểu số khi sinh con đúng chính sách dân số.
Những năm qua, tỉnh quan tâm đến
việc bổ sung nguồn lực cho công tác dân số, HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số
53/2021/NQ-HĐND ngày 29/7/2021 quy định một số chính sách hỗ trợ công tác dân
số trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2030, tuy nhiên trong quá trình thực hiện
gặp khó khăn trong công tác đấu thầu mua sắm, cung cấp sản phẩm phương tiện
tránh thai...
Mức sinh cao tác động tiêu cực
đến sự phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, y tế, giáo dục…, làm
tăng khoảng cách phát triển và chất lượng cuộc sống của nhân dân các địa phương
vùng mức sinh cao so với vùng mức sinh thấp so với các khu vực khác. Ngược lại,
mức sinh thấp kéo dài sẽ để lại nhiều hệ lụy như già hóa dân số, thiếu hụt lao
động, ảnh hưởng đến an sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực trong xây dựng
và phát triển đất nước.
Mục tiêu của công tác dân số trong thời gian tới là tiếp tục chuyển trọng tâm công tác dân số
từ dân số - kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển; thực hiện điều
chỉnh mức sinh hợp lý, phấn đấu đạt mức sinh thay thế; hạn chế tốc độ tăng tỷ số
giới tính khi sinh; nâng cao chất lượng dân số và tăng cường chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng
dân số, điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, đối tượng trên địa bàn tỉnh,
cần tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, các
cấp, ngành trong xây dựng kế hoạch, chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp
với địa bàn các huyện, thành phố và chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Tập trung công tác truyền thông,
vận động với thông điệp truyền thông phù hợp với tỉnh là “dừng lại ở 2 con để
nuôi dạy cho tốt”; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sinh ít con hơn ở những địa
phương có mức sinh còn cao và sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp; đa
dạng hoá phương thức truyền thông, vận động phù hợp với từng nhóm đối tượng,
chủ yếu là các cặp vợ chồng đã sinh 2 con và có ý định sinh thêm con. Tuyên
truyền, vận động trực tiếp tại hộ gia đình, cộng đồng thông qua đội ngũ cộng
tác viên dân số, nhân viên y tế thôn bản và tuyên truyền viên của các ngành,
đoàn thể cơ sở. Tổ chức các chiến dịch, sự kiện truyền thông tại nơi đông dân
cư, tập trung nhiều thanh niên, vị thành niên. Nhất trí quan điểm không để tình
trạng địa phương có mức sinh cao sinh bù cho địa phương có mức sinh thấp và ngược
lại.
Tiếp tục tổ chức chiến dịch
truyền thông lồng ghép với cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/kế hoạch
hóa gia đình ở những địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Tổ
chức cung ứng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình thân
thiện cho vị thành niên, thanh niên; các hoạt động thúc đẩy tiếp thị xã hội, xã
hội hóa cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Tổ chức các hoạt động để phát
huy vai trò của những người có ảnh hưởng với công chúng, gia đình và dòng họ
như già làng, trưởng bản; truyền thông, vận động không tảo hôn, không kết hôn
sớm, không sinh con quá sớm, không sinh quá dày và không sinh nhiều con...
Từng bước đẩy mạnh, quan tâm chú
trọng đến các hoạt động nâng cao chất lượng dân số, tổ chức các loại hình cung
cấp dịch vụ phù hợp; tư vấn, kiểm tra sức khỏe, phát hiện sớm, phòng, tránh các
yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh con dị tật, mắc các bệnh, tật ảnh hưởng đến việc
suy giảm chất lượng nòi giống. Lồng ghép, huy động các nguồn vốn như Chương
trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi với các nguồn lực của địa phương để triển khai thực hiện có hiệu
quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ đối với công tác dân số.
Bảo An