Kháng sinh là thuốc vô cùng quan trọng được sử dụng để điều trị các bệnh lây nhiễm. Sự ra đời của thuốc kháng sinh đã mở ra kỷ nguyên mới cho y học thế giới, các bệnh nhiễm trùng nhanh chóng được điều trị hiệu quả. Tuy nhiên, với việc sử dụng kháng sinh một cách không kiểm soát như hiện nay đã làm cho tình trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh ngày càng gia tăng, gây ảnh hưởng xấu tới hiệu quả điều trị.
Chỉ sử dụng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn và phải sử dụng kháng sinh đúng liều lượng, đúng thời gian qui định
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cảnh báo, kháng kháng sinh là một trong những mối đe dọa sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới, ước tính mỗi năm trên thế giới có khoảng 700.000 người tử vong
liên quan đến nhiễm trùng do kháng thuốc. Với tình hình này, WHO dự tính đến năm 2050, cứ 3 giây
sẽ có 1 người tử vong do các siêu vi khuẩn kháng thuốc, tương đương với khoảng
10 triệu người mỗi năm.
Theo đánh giá của WHO, Việt Nam là một
trong những nước có tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh cao, do tình trạng lạm dụng và
tùy tiện sử dụng thuốc của người dân. Thực trạng này đặt chúng ta trước nguy cơ
đối mặt với việc không còn thuốc kháng sinh hiệu quả để điều trị bệnh nhiễm
trùng.
Theo kết quả khảo sát của ngành Y tế, phần lớn kháng sinh được
bán mà không có đơn của bác sĩ, ở khu vực thành thị là 88%, ở nông thôn tới
91%. Vấn đề kháng thuốc kháng sinh đang ngày càng trầm trọng khi nhiều vi khuẩn
kháng với nhiều loại kháng sinh mà nguyên nhân chính là do lạm dụng kháng sinh.
Phần lớn các loại kháng sinh thuộc thế hệ 1 và thế hệ 2 hiện nay đều không có
tác dụng đặc hiệu. Các bệnh viện hầu hết đều phải sử dụng kháng sinh thế hệ mới
trong điều trị.
Tình trạng kháng kháng sinh hiện nay dẫn đến ngày càng có nhiều
bệnh lý nhiễm trùng (viêm phổi, nhiễm trùng tiết niệu, bệnh lao,...) trở nên
khó điều trị hơn hoặc thậm chí không thể điều trị được nữa.
Những nguyên nhân dẫn đến
kháng thuốc
Càng sử dụng kháng sinh
nhiều càng có nhiều cơ hội cho vi khuẩn kháng thuốc. Những nguyên nhân chủ yếu
của kháng thuốc bao gồm:
- Dùng kháng sinh khi
không cần thiết.
- Không dùng kháng sinh
đúng liều và đúng lúc/thời điểm như bác sỹ đã kê đơn, điều này tạo điều kiện
cho các vi khuẩn trong cơ thể bạn kháng thuốc.
Để sử dụng kháng sinh một cách hợp lý, an toàn, hiệu quả
trong điều trị và hạn chế tối đa những tác hại do sử dụng kháng sinh gây ra,
cần nắm vững một số nguyên tắc sau đây: Chỉ sử dụng kháng sinh khi có nhiễm
trùng; Phải lựa chọn đúng kháng sinh và đường dùng thuốc thích hợp; Phải sử
dụng kháng sinh đúng liều lượng và đúng thời gian qui định; Phải biết các
nguyên tắc chủ yếu về phối hợp kháng sinh. Kháng
sinh không dùng để điều trị các bệnh do virus gây ra như cảm, cúm.
Chỉ sử dụng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn
Kháng sinh chỉ có hiệu quả đối với vi
khuẩn, chứ không phải đối với các loại lây nhiễm như vi rút là nguyên nhân của
cảm, cúm. Do đó, chỉ nên chỉ định sử dụng kháng sinh trong trường hợp có nhiễm
khuẩn.
Việc
sử dụng kháng sinh khi không có nhiễm khuẩn dẫn đến thất bại trong điều trị,
gây tốn kém, có thể mang lại các tác dụng không mong muốn cho người bệnh. Việc
dùng bừa bãi kháng sinh còn làm tăng các chủng đề kháng thuốc. Để quyết định
việc sử dụng kháng sinh cần tiến hành: thăm
khám lâm sàng; làm các xét nghiệm lâm sàng để tìm vi khuẩn gây bệnh.
Phải
sử dụng kháng sinh đúng liều lượng và đúng thời gian qui định
Liều dùng của kháng sinh
phụ thuộc nhiều yếu tố: tuổi người bệnh, cân nặng, chức năng gan - thận, mức độ
nặng của bệnh. Không có liều chuẩn cho các trường hợp nhiễm khuẩn nặng. Kê đơn
không đủ liều sẽ dẫn đến thất bại điều trị và tăng tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc.
Ngược lại, với những kháng sinh có độc tính cao, phạm vi điều trị hẹp (ví dụ:
các aminoglycosid, polypeptide), phải bảo đảm nồng độ thuốc trong máu theo
khuyến cáo để tránh độc tính.
Thời gian điều trị phụ
thuộc vào tình trạng nhiễm khuẩn, vị trí nhiễm khuẩn và sức đề kháng của người
bệnh. Các trường hợp nhiễm khuẩn nhẹ và trung bình thường đạt kết quả sau 7 -
10 ngày nhưng những trường hợp nhiễm khuẩn nặng, nhiễm khuẩn ở những tổ chức mà
kháng sinh khó thâm nhập (màng tim, màng não, xương-khớp…), bệnh Lao thì đợt điều trị
kéo dài hơn nhiều. Tuy nhiên, một số bệnh nhiễm khuẩn chỉ cần một đợt ngắn như: nhiễm khuẩn tiết
niệu -
sinh dục chưa biến chứng (khoảng 3 ngày, thậm chí một liều duy nhất).
Không nên điều trị kéo
dài để tránh kháng thuốc, tăng tỷ lệ xuất hiện tác dụng không mong muốn và tăng
chi phí điều trị.
Lưu ý tác dụng không mong muốn
Tất cả các kháng sinh đều có thể gây ra tác dụng không mong muốn (ADR), do
đó cần cân nhắc nguy cơ/lợi ích trước khi quyết định kê đơn. Mặc dù đa số
trường hợp ADR sẽ tự khỏi khi ngừng thuốc nhưng nhiều trường hợp hậu quả rất
trầm trọng, thậm chí có thể dẫn tới tử vong ngay (sốc phản vệ). Các loại phản
ứng quá mẫn thường liên quan đến tiền sử dùng kháng sinh ở người
bệnh, do đó phải khai thác tiền sử dị ứng, tiền sử dùng thuốc ở người bệnh
trước khi kê đơn và phải luôn sẵn sàng các phương tiện chống sốc khi sử dụng
kháng sinh.
Kháng
sinh là một nhóm thuốc đặc biệt quan trọng, do bệnh lý nhiễm khuẩn hiện nay vẫn
là một trong những bệnh đứng đầu về tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong. Để đảm bảo
sử dụng thuốc hợp lý, an toàn, tránh lạm dụng thuốc, bác sỹ điều trị cần nắm
vững các kiến thức liên quan đến kháng sinh, vi khuẩn gây bệnh và người bệnh.
Đối
với bệnh nhân sử dụng thuốc kháng sinh cần tuân thủ chặt chẽ hướng dẫn dùng
thuốc của bác sỹ, chỉ dùng thuốc khi được thầy thuốc thăm khám và chỉ định,
dùng đúng liều lượng, đúng cách và đúng thời gian quy định.
Bảo An