Bệnh Glôcôm là một nhóm các rối loạn liên quan đến mắt, dẫn đến tổn
thương dây thần kinh thị giác của mắt. Glôcôm là nguyên nhân gây mù lòa phổ biến thứ hai thế giới, chỉ sau đục
thủy tinh thể. Cứ 200 người ở độ tuổi 40 thì có một người bị
bệnh, tỷ lệ này tăng lên 1/8 ở độ tuổi 80. Glôcôm được biết đến với tên
dân gian thường gọi là bệnh thiên đầu thống hay cườm nước.
Thường xuyên đi khám mắt 1 đến 2 lần trong một
năm để phát hiện những dấu hiệu bệnh Glôcôm và
các bệnh về mắt khác
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, Glôcôm là nguyên nhân gây mù
lòa phổ biến thứ hai thế giới, chỉ sau đục thủy tinh thể. Ước tính hiện
nay có khoảng hơn 80 triệu người mắc bệnh Glôcôm (tăng nhãn áp) trên thế giới,
khoảng 50% người mắc bệnh không biết rằng mắc bệnh. Đa số những người mù lòa
sinh sống tại các vùng nông thôn, miền núi thiếu các điều kiện thực hiện dịch vụ
chăm sóc mắt. Điều này là do trong giai đoạn đầu bệnh Glôcôm không có triệu chứng,
nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến mù lòa. Trong điều trị Glocom, không
có biện pháp nào tốt hơn là tầm soát và phát hiện bệnh sớm.
Bệnh Glôcôm
không có nguyên nhân rõ ràng nhưng có liên quan đến sự tăng áp lực trong mắt
và/hoặc giảm lưu lượng máu nuôi dưỡng dây thần kinh thị giác. Điều này có thể do bẩm sinh hoặc do tổn
thương bên trong mắt.
Bệnh Glôcôm rất phức tạp do có rất nhiều hình thái với những
cơ chế bệnh sinh, biểu hiện lâm sàng, đòi hỏi các phương pháp điều trị khác
nhau. Glôcôm góc đóng thường có biểu hiện lâm sàng cấp tính nên người bệnh thường
đi khám chữa ngay để thoát khỏi cơn đau nhức mắt. Glôcôm góc mở là hình thái bệnh
mạn tính, không triệu chứng hoặc triệu chứng rất âm ỉ, mờ nhạt. Có đến 50% người
bệnh Glôcôm góc mở
và góc đóng mạn tính không biết mình bị bệnh Glôcôm. Chỉ đến khi thị lực giảm sút trầm trọng
mới phát hiện bệnh thì đã quá muộn.
Ngoài ra, dựa trên cơ sở bệnh căn thì Glôcôm có thể
chia thành Glôcôm nguyên
phát và Glôcôm thứ
phát. Glôcôm nguyên phát là hình thái Glôcôm không
kèm theo bệnh mắt hoặc bệnh toàn thân nào làm tăng trở lưu thủy dịch. Glôcôm
thứ phát luôn kèm theo bệnh căn mắt hoặc bệnh toàn thân gây cản trở lưu thông
thủy dịch.
Bệnh Glôcôm nếu
không được phát hiện và điều trị sẽ tiến triển qua các giai đoạn tiềm tàng, sơ
phát, tiến triển, trầm trọng, gần mù và mù. Vì nguyên sinh bệnh chưa rõ ràng
nên không thể phòng ngừa mắc bệnh Glôcôm. Tuy
nhiên, có thể phòng tránh được mù loà do Glôcôm bằng
cách phát hiện sớm, điều trị thích hợp và theo dõi thường xuyên.
Ai có nguy cơ cao bị bệnh Glôcôm?
Những người trên 35 tuổi; người ruột thịt của
người bệnh Glôcôm; người
có cấu trúc mắt nghi ngờ Glôcôm: Bán
kính độ cong giác mạc nhỏ, tiền phòng nông, lõm đĩa thị rộng, chênh lệch độ lõm
đĩa giữa 2 mắt, bị lão thị sớm, tăng số kính lão nhanh; người có nhãn áp ở mức
23mmHg (đo nhãn áp kế Maclacốp) kèm theo các cảm giác chủ quan, triệu chứng
khách quan đặc hiệu của glôcôm (rức nửa đầu hoặc cả 2 bên, mờ mắt, tức mắt,
nhìn nguồn sáng thấy quầng tán sắc xanh đỏ...); người có nhãn áp hai mắt chênh
lệch nhau quá 5mmHg; người bệnh có tiền sử dùng corticoid kéo dài (tra mắt hoặc
toàn thân); người có bệnh toàn thân như đái tháo đường, cao huyết áp… là những
đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh Glôcôm.
Biểu hiện lâm sàng
Triệu chứng cơ năng, dấu hiệu thực thể của
bệnh phụ thuộc vào hình thái Glôcôm.
Glôcôm góc
đóng cơn cấp:
- Đau nhức mắt đột ngột dữ dội, lan lên đỉnh
đầu
- Mắt đỏ, mi nề, sợ ánh sáng, chảy nước mắt
- Bệnh nhân nhìn mờ như qua màn sương, nhìn
đèn có quầng xanh đỏ
- Kết mạc cương tụ rìa mạnh
- Giác mạc phù nề, tiền phòng nông, giảm tính
trong suốt
- Đồng tử giãn méo, mất phản xạ, bờ đồng tử
mất viền sắc tố, mống mắt cương tụ
- Thể thủy tinh mờ đục, có thể rạn bao thể
thủy tinh
- Dịch kính phù nề, mất độ trong suốt, không
soi rõ đáy mắt
- Soi góc tiền phòng: góc đóng toàn bộ chu
vi, có thể có dính góc
- Nhãn áp tăng cao, nhãn cầu căng cứng như
hòn bi.
Glôcôm góc
đóng bán cấp:
- Thỉnh thoảng xuất hiện những cơn đau nhức
mắt, nhức đầu thoảng qua kèm theo nhìn mờ. Qua cơn thị lực trở lại bình thường.
Các cơn tăng dần về tần suất, mức độ, thị lực ngày càng giảm.
- Kết mạc cương tụ nhẹ, giác mạc phù nề nhẹ,
tiền phòng nông, đồng tử giãn méo, phản xạ kém, mống mắt có đám thoái hóa, mất
viền sắc tố bờ đồng tử.
- Thể thủy tinh và dịch kính phù nhẹ
- Soi đáy mắt thường thấy có lõm teo đĩa thị
giác đặc hiệu của Glôcôm
- Nhãn áp cao
- Thị trường tổn hại tùy theo giai đoạn bệnh.
Glôcôm góc
đóng mãn tính:
- Thường ít gặp và rất ít triệu chứng
- Không đau nhức hoặc đau nhức rất nhẹ
- Thị lực giảm dần, phần lớn bệnh nhân đến đã
bị mù hoặc gần mù một mắt
- Kết mạc không cương tụ, giác mạc trong,
tiền phòng nông, góc tiền phòng đóng
- Nhãn áp cao hoặc có thể không cao
- Lõm teo đĩa thị điển hình kiểu Glôcôm
- Chức năng thị giác tổn hại nhiều (thị lực
và thị trường)
Glôcôm góc mở:
Bệnh xuất hiện âm thầm, tiến triển mạn tính,
lần lượt qua từng giai đoạn, thị lực trung tâm thường được bảo tồn đến giai
đoạn muộn của bệnh, người bệnh không nhận thấy thị lực ngày càng bị giảm nên
thường đến khám ở giai đoạn muộn khi bệnh đã tiến triển nặng. Đa số người bệnh
không đau nhức mắt hay đau nhức đầu, một số người có cảm giác nặng, căng tức
mắt thoáng qua, nhìn mờ như qua màn sương, nhìn đèn có quầng xanh đỏ, xuất hiện
thành từng cơn ngắn rồi lại tự hết. Triệu chứng không rõ ràng nên thường ít
được người bệnh quan tâm.
Phương pháp chẩn đoán bệnh Glôcôm
Việc chẩn đoán bệnh Glôcôm dựa vào
các khám nghiệm thử thị lực, đo nhãn áp, soi đáy mắt, khám thị trường để phát
hiện những tổn thương đặc hiệu của bệnh. Cần lưu ý các trường hợp có các triệu
chứng đặc hiệu của Glôcôm, bị lão
thị sớm, tăng số kính lão nhanh. Lưu ý người bệnh có huyết áp cao, đái tháo
đường vì tỷ lệ Glôcôm ở những
người này khá cao.
Những đối tượng nguy cơ cao mắc bệnh glôcôm
nên đi khám kiểm tra mắt định kỳ ở các cơ sở chuyên khoa mắt.
Biện pháp điều trị
Bệnh Glôcôm là một
cấp cứu nhãn khoa. Người bệnh được điều trị ngay sau khi chẩn đoán bệnh bằng
tra mắt và uống thuốc hạ nhãn áp. Hiện nay, trên thị trường Việt Nam có nhiều
thuốc hạ nhãn áp với những cơ chế tác động khác nhau: pilocarpin 1%, 2%,
timolol 0,25%,0,5%, betoptic S, alphagan P, travatan 0,004%, lumigan, azopt,
acetazolamid, glyxerol, manitol… Các thuốc này phải được sử dụng theo chỉ định,
dưới sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ nhãn khoa.
Glôcôm góc đóng thường được chỉ định điều trị
phẫu thuật sau khi đã điều trị cấp cứu bằng thuốc. Mắt chưa bị lên cơn Glôcôm cũng
cần phải điều trị dự phòng bằng lade hoặc phẫu thuật.
Glôcôm góc mở cần can thiệp phẫu thuật khi
điều trị thuốc không đạt hiệu quả mong muốn. Tuy nhiên hiện nay, ở Việt Nam,
tuỳ thuộc điều kiện thực tế của người bệnh, cần chỉ định điều trị phẫu thuật
sớm nếu người bệnh không có điều kiện kinh tế để mua thuốc hoặc không có điều
kiện đi lại để thăm khám, kiểm tra, theo dõi định kỳ.
Trong điều trị Glôcôm, không có biện pháp nào tốt hơn là tầm soát và
phát hiện bệnh sớm. Chính vì vậy người dân cần có kế hoạch thăm khám, thường xuyên, định kỳ để tầm soát và phòng tránh
các nguy cơ của bệnh lý.
Làm thế nào để
dự phòng bệnh Glôcôm
Không có
phương pháp nào phòng ngừa bệnh tăng nhãn áp. Tuy nhiên nếu được chuẩn đoán và
điều trị sớm có thể làm chậm và ngăn chặn tổn thương thần kinh thị giác. Nếu
không điều trị, bệnh tăng nhãn áp có thể dẫn đến mù loà.
Từ 40 tuổi trở
lên và những bệnh nhân có yếu tố di truyền như có cha mẹ hay ông bà bị Glôcôm thì nên khám kiểm tra
nhãn áp thường quy.
Thường xuyên
đi khám mắt 1 đến 2 lần trong một năm để phát hiện những dấu hiệu bệnh Glôcôm và các bệnh
về mắt khác
Không được lạm dụng thuốc có chứa corticoid
nhất là những thuốc tra tại mắt vì có thể dẫn đến mù loà do bị Glôcôm, đục thể thuỷ tinh, loét giác mạc. Nếu
phải điều trị corticoid toàn thân trong một.
Những người bị
mắc bệnh đái đường, bệnh cao huyết áp cần thiết được điều trị đúng để đường huyết,
hoặc huyết áp ổn định ở mức bình thường, mặt khác phải được kiểm tra đáy mắt định
kỳ nhằm phát hiện tình trạng võng mạc thiếu máu do những bệnh này gây ra để điều
trị laser dự phòng glôcôm tân mạch.
Những người
được chẩn đoán bị đục thể thuỷ tinh cần theo dõi và mổ đúng thời điểm để tránh
những biến chứng do đục thể thuỷ tinh giai đoạn cuối gây ra.
Trong điều trị Glôcôm, không có biện pháp nào
tốt hơn là tầm soát và phát hiện bệnh sớm. Hưởng ứng Tuần lễ Bệnh Glôcôm thế giới
năm 2023 (từ 12 - 18/03/2023) với chủ đề "Thế giới tươi sáng, hãy cứu lấy
thị giác của bạn" với thông điệp hãy kiểm tra mắt định kỳ để được phát
hiện sớm và cứu lấy thị giác của bạn.
Bệnh Glôcôm không
thể chữa khỏi hoàn toàn. Mục đích điều trị Glôcôm là nhằm
ngăn chặn bệnh không tiếp tục gây tổn thương đầu dây thần kinh thị giác. Trong
nhiều trường hợp, Glôcôm tuy đã
được phát hiện và điều trị, song người bệnh cho rằng đã được chữa trị khỏi hẳn
nên không đi khám, theo dõi tiếp. Hậu quả là bệnh vẫn âm ỉ tiếp tục tiến triển
dẫn đến mất dần chức năng thị giác. Vì vậy, người bệnh Glôcôm cần
phải được chăm sóc theo dõi thường xuyên, theo một quy trình chặt chẽ từ khi
được phát hiện bệnh, được điều trị cho đến hết quãng đời còn lại nhằm kiểm soát
được diễn biến bệnh, hạn chế tối đa tổn hại về thực thể và chức năng thị giác.
Bảo An